Lịch sử hoạt động Monika Brodka

Đầu sự nghiệp

Sau khi đăng quang cuộc thi Pop idol phiên bản Ba Lan vào năm 2004, Monika Brodka đã phát hành album phòng thu đầu tay tên là Album – nhạc phẩm giành được chứng chỉ vàng chỉ sau một tháng ra mắt.[3]Tháng 11 năm 2006, cô phát hành album thứ hai với tên gọi Moje piosenki (My Songs) và cũng giành được chứng chỉ vàng nhờ đĩa này.[3]

Granda (2010–2011)

Sau 4 năm tạm ngừng hoạt động, album phòng thu thứ của Brodka mang tên Granda được phát hành vào tháng 9 năm 2010. Album thể hiện một sự thay đổi lớn trong định hướng âm nhạc và được tờ The Guardian miêu tả là "dựa trên nền nhạc electro, rock và roots nhưng vẫn trung thành với pop trong lối tiếp cận và thực hiện, đĩa nhạc này sở hữu sức sống và sự táo bạo làm cho hầu hết các nghệ sĩ alt-rock của Ba Lan phải cảm thấy hổ thẹn".[2] Granda giành cú đúp chứng chỉ bạch kim tại Ba Lan vào tháng 11 năm 2011.[4]

LAX EP (2012)

Tháng 5 năm 2012, Brodka phát hành một đĩa EP lấy tên LAX, được thực hiện tại phòng thu Red Bull Studios tại Los Angeles cùng với nhà sản xuất kiêm kỹ sư âm nhạc Bartosz Dziedzic.[5][6] Đĩa EP có hai bài hát mới bằng tiếng Anh là "Varsovie" và "Dancing Shoes" cũng mang đến một số bài remix. Brodka đã đoạt giải Fryderyk năm 2013 cho Bài hát của năm ("Varsovie") và nhận hai đề cử ở các hạng mục Album của năm (LAX) và Nghệ sĩ của năm.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Monika Brodka http://www.monikabrodka.com/ http://www.nielsenmusiccontrol.com/index_pol http://www.mp4.com.pl/index.php?str=wyk&wykonawcy=... http://www.culture.pl/web/english/resources-music-... http://muzyka.onet.pl/plyty/katalog/brodka-lax,184... http://olis.onyx.pl/listy/index.asp?idlisty=1023&l... http://olis.onyx.pl/listy/index.asp?idlisty=1348&l... http://olis.onyx.pl/listy/index.asp?idlisty=225&la... http://olis.onyx.pl/listy/index.asp?idlisty=229&la... http://olis.onyx.pl/listy/index.asp?idlisty=269&la...